Nước thải sinh hoạt là nước được thải bỏ sau khi sử dụng cho các mục đích sinh hoạt
của cộng đồng như: tắm, giặt giũ, tẩy rửa, vệ sinh cá nhân… Chúng thường được thải ra từ
các căn hộ, trường học, bệnh viện, chợ, khu vực đô thị, trung tâm thương mại, khu vui chơi
giải trí… Nước thải sinh hoạt của hộ gia đình thường được chia làm 2 loại: nước thải từ
nhà vệ sinh chứa các chất ô nhiễm chủ yếu là các chất hữu cơ, các loại vi sinh vật gây
bệnh và nước thải từ các quá trình tắm, giặt, nấu ăn với các thành phần chất ô nhiễm
không đáng kể. Các thành phần ô nhiễm chính đặc trưng của nước thải sinh hoạt thường
là COD, N, P. Trong đó hàm lượng N và P là rất lớn trong nước thải sinh hoạt, nếu không
được loại bỏ thì chúng sẽ gây nên hiện tượng phú dưỡng hóa.
Với thành phần ô nhiễm là các tạp chất nhiễm bẩn có tính chất khác nhau, từ các loại
chất không tan đến các chất ít tan và cả những hợp chất tan trong nước, việc xử lý nước
thải sinh hoạt là loại bỏ các tạp chất đó, làm sạch nước và có thể đưa nước vào nguồn tiếp
nhận hoặc đưa vào tái sử dụng. Việc lựa chọn phương pháp xử lý nước thải sinh hoạt thích
hợp thường được căn cứ trên đặc điểm của các loại tạp chất có trong nước thải, căn cứ
dựa vào chất thải sinh hoạt sau khi đã phân loại. Hiện nay, có rất nhiều phương pháp xử lý
thông dụng nhưng vẫn còn gặp những hạn chế nhất định như: phương pháp hóa học có
nhược điểm là chi phí vận hành cao, không thích hợp cho các hệ thống xử lý nước thải
sinh hoạt với quy mô lớn, các hệ thống xử lý hoá lý thì lại quá phức tạp và khó vận hành…
Đối với việc xử lý nước thải sinh hoạt có yêu cầu đầu ra không quá khắt khe đối với chỉ
tiêu N và P, quá trình xử lý hiếu khí bằng bùn hoạt tính là quá trình xử lý sinh học thường
được ứng dụng nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét